Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc trả lời chất vấn tại hội trường
Sau ý kiến trả lời chất vấn của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh và ý kiến làm rõ thêm của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu một số vấn đề về phiên chất vấn đối với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh, cụ thể:
Kính thưa Quốc hội, với đặc thù là một quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định và nhất quán về chính sách dân tộc theo nguyên tắc các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, luôn là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và cả hệ thống chính trị. Tại phiên chất vấn chiều qua và sáng nay, Quốc hội đã tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn đối với lĩnh vực dân tộc thuộc trách nhiệm của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh, đã có 62 vị đại biểu Quốc hội đăng ký chất vấn, trong đó có 35 đại biểu đã tham gia chất vấn gồm 28 đại biểu nêu câu hỏi chất vấn và 7 đại biểu tham gia tranh luận. Còn 27 đại biểu đăng ký nhưng chưa được đặt câu hỏi do hết thời gian. Đề nghị các vị đại biểu Quốc hội gửi chất vấn đến Bộ trưởng để được trả lời bằng văn bản và Tổng Thư ký cũng sẽ tổng hợp khi nghiên cứu hoàn thiện dự thảo nghị quyết trình Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua vào cuối kỳ họp.
Chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ phát biểu tại hội trường sáng 07/6/2023
Nhìn chung, phiên chất vấn diễn ra rất sôi nổi, trách nhiệm, thẳng thắn và mang tính xây dựng cao. Câu hỏi của các vị đại biểu Quốc hội đã bám sát nội dung nhóm vấn đề chất vấn. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc mặc dù lần đầu tiên trả lời chất vấn nhưng đã rất bình tĩnh, tự tin, chuẩn bị tốt nội dung, cơ bản nắm chắc vấn đề, sâu sát với thực tiễn, đã tập trung trả lời vào các vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm, giải trình khá đầy đủ, đồng thời đề xuất được phương hướng và một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập trong lĩnh vực phụ trách. Qua phiên chất vấn và trả lời chất vấn đã làm rõ thêm trách nhiệm của Chính phủ, Ủy ban Dân tộc và các bộ ngành, cơ quan có liên quan.
Qua Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo của Ủy ban Dân tộc và diễn biến của phiên chất vấn cho thấy, thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, công tác dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc đã đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện, tạo nên nhiều chuyển biến trong đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi nước ta, góp phần tăng cường an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88 ngày 18/11/2019 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 và Nghị quyết số 120 ngày 19/6/2020 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Như vậy, đây là chương trình mục tiêu quốc gia thứ ba sau Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững mà tích hợp gần 200 chính sách của đồng bào dân tộc vào chương trình này. Đồng thời, đã ban hành các luật, nghị quyết khác nhằm tạo cơ chế thu hút nguồn lực hỗ trợ đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh đó, qua chất vấn và trả lời chất vấn vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế. Nhìn chung, các chính sách dân tộc còn phân tán, dàn trải, hiệu quả còn chưa cao, việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung, trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi còn rất chậm. Chúng ta phải dùng từ "rất chậm" như Phó Thủ trưởng Trần Lưu Quang đã nói rất chính xác. Kết quả đạt được đến nay còn hạn chế. Các văn bản hướng dẫn ban hành chậm hoặc thiếu đồng bộ, chưa rõ ràng, chưa có định mức cụ thể. Thủ tục tiếp nhận, phê duyệt các chương trình, dự án còn phức tạp. Sự phối hợp giữa các cơ quan, chính quyền các cấp còn bất cập, lúng túng. Việc phân định các xã, thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa được giải quyết dứt điểm. Việc huy động các nguồn lực cho chương trình và phân bổ sử dụng các nguồn lực còn khó khăn, theo phương châm mà Đảng ta đã nói đối với công tác dân tộc thì nguồn lực nhà nước vẫn là quyết định, nguồn lực xã hội hóa là quan trọng. Cả 2 việc này, kể cả huy động, quản lý, sử dụng, phân bổ đều đang còn có những vướng mắc, khó khăn, cũng có những trường hợp có tiền mà chưa tiêu được.
Việc thực hiện chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất trong đồng bào dân tộc thiểu số chưa được triển khai hiệu quả. Đời sống một bộ phận nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn nhiều khó khăn. Việc phục hồi sản xuất chưa bền vững, không ít hộ dân chưa được hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội do chưa đăng ký được hộ khẩu; thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi, gây thiệt hại cho sản xuất, ảnh hưởng đến đời sống của đồng bào và việc triển khai các chính sách dân tộc, các chương trình mục tiêu quốc gia.
Qua phiên chất vấn đề nghị Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, các Bộ trưởng, Trưởng ngành có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện các giải pháp đã đề ra nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, trong đó tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng dự phiên họp chất vấn tại hội trường
Thứ nhất, quyết liệt triển khai các giải pháp để thực hiện hiệu quả Kết luận 65 ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 88 ngày 18/11/2019 của Quốc hội. Nghiên cứu sửa đổi Nghị định 05 ngày 14/1/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc để thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, định hướng quan trọng về chính sách dân tộc cho giai đoạn 2021-2030. Khẩn trương hoàn thành việc rà soát, sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền những quy định và hướng dẫn còn chưa phù hợp, chưa rõ ràng, chưa đầy đủ. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn để đẩy nhanh tiến độ tăng tốc, tạo đột phá và chuyển biến căn bản trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia để bù lại thời gian chậm trễ vừa qua, nhất là việc phân bổ, quản lý, sử dụng vốn thực hiện chương trình; chỉ đạo, đôn đốc triển khai các dự án, tiểu dự án, nội dung trong chương trình bảo đảm hiệu quả thực hiện đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong năm 2023 và giai đoạn 2021-2025. Nghiên cứu thí điểm việc phân cấp khoán gọn kinh phí của 3 chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn 1 huyện, báo cáo Quốc hội tại kỳ giám sát tối cao của Quốc hội đối với 3 chương trình mục tiêu của quốc gia vào kỳ họp tháng 6/2023. Chúng ta đều nói là rất khó khăn trong việc lồng ghép và vấn đề phân công, phân cấp và phân quyền. Chúng ta nghiên cứu xem có thí điểm trên địa bàn 1 huyện nào đó để chúng ta lồng ghép 3 chương trình này được không và giao toàn quyền cho huyện đấy căn cứ nhu cầu thực tiễn để bố trí làm sao đạt được mục tiêu của cả 3 chương trình, nhưng nó không chi li đến mức độ là đồng này mua muối, đồng này mua mắm, đồng này của chương trình này, đồng kia của chương trình kia. Vấn đề này là một trong những nội dung mà trong tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 15 về chính sách xã hội chúng ta cũng đang đặt ra. Các đồng chí nghiên cứu khả năng này để chúng ta cùng bàn luận và chúng ta sẽ xem xét, nếu cần thiết thì có những quyết sách tại kỳ họp cuối năm khi chúng ta giám sát các chương trình mục tiêu quốc gia này.
Thứ hai, huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó tập trung vào địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn và có khó khăn đặc biệt, ưu tiên nhóm đối tượng nghèo là phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số. Đồng thời, chú trọng phát huy truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, vượt khó vươn lên của người dân. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về đầu tư, doanh nghiệp, quy hoạch, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư, huy động nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Vấn đề này các đại biểu nói rất nhiều, làm sao thu hút được đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào khu vực này. Khai thác tiềm năng, thế mạnh riêng của từng vùng, tập trung nguồn lực đầu tư các dự án quan trọng quốc gia, các dự án liên kết có tác động lan tỏa về phát triển kinh tế - xã hội của vùng để rút ngắn thời gian lưu thông hàng hóa từ các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện khó khăn tới các thị trường tiêu thụ.
Thứ ba, sớm hoàn thành việc rà soát, tổng hợp, sửa đổi, bổ sung danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực 3, khu vực 2, khu vực 1 giai đoạn 2021-2025. Đây là vấn đề đại biểu quan tâm rất nhiều, phân biệt như thế nào giữa các xã này, khái niệm về vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, đồng bào miền núi, Bộ trưởng cũng đã nói nhiều và đại biểu cũng đã thảo luận nhiều. Lập danh sách các xã đạt chuẩn nông thôn mới, các xã, thôn chia tách, sáp nhập hoặc đề nghị điều chỉnh tên gọi, trên cơ sở đó nghiên cứu đề xuất giải pháp cụ thể đối với việc phân định vùng dân tộc và miền núi theo trình độ phát triển phù hợp với thực tiễn và các quy định hiện hành. Trước mắt, khẩn trương chuẩn bị các nội dung theo yêu cầu tại kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 2 tháng 8/2021 về phân định miền núi, vùng cao, đảm bảo chất lượng và tiến độ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào phiên họp tháng 9/2023.
Thứ tư, tập trung triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, chuyển đổi nghề cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số chưa hoặc chưa có nhiều hoặc thiếu đất ở, đất sản xuất. Trong đó, cần chủ động nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh nguồn vốn phù hợp với điều kiện của các địa phương, tính toán cơ chế hỗ trợ nhà ở, đất ở sát với thực tiễn. Đến năm 2025 phấn đấu đạt được các mục tiêu giải quyết đất ở cho hơn 17.400 hộ, giải quyết trực tiếp đất sản xuất cho hơn 47.200 hộ, giải quyết sinh kế cho 271.800 hộ, cơ bản không còn tình trạng dân di cư tự do, hoàn thành công tác bố trí toàn bộ số dân đã di cư tự do vào các điểm dân cư theo quy hoạch. Hoàn thành việc nhập hộ khẩu, hộ tịch cho các hộ dân di cư tự do theo quy định. Chủ động đề xuất việc đánh giá, sơ kết, tổng kết thực hiện các chính sách, rút ra bài học kinh nghiệm và xây dựng các chính sách sẽ triển khai thực hiện của chương trình trong giai đoạn 2026-2030.
Thứ năm, hạn chế tối đa chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích ngoài lâm nghiệp, hoàn thành việc giao đất, giao rừng, cho thuê rừng gắn với cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp, bảo đảm tất cả diện tích rừng và đất được quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp phải được giao, cho thuê đến những chủ rừng thực sự. Tháo gỡ kịp thời các vướng mắc về cơ chế, chính sách đầu tư trồng rừng, giao khoán bảo vệ rừng, điều chỉnh nâng mức hỗ trợ phù hợp để khuyến khích, hỗ trợ đồng bào, tạo việc làm, tăng thu nhập từ rừng, gắn bó hơn với rừng. Bố trí đủ nguồn lực để tổ chức bảo vệ rừng và phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng, đảm bảo mục tiêu bảo vệ, phát triển bền vững đối với toàn bộ 14,609 triệu hecta rừng hiện có và diện tích rừng được tạo mới, giảm tối thiểu 10% năm về số vụ vi phạm và diện tích rừng bị thiệt hại so với năm 2020.